Một người bạn nói với Hoa Tử rằng anh ấy mắc bệnh động mạch vành, đã dùng aspirin để ngăn ngừa huyết khối, nhưng gần đây lại bị rung nhĩ. Liệu có cần tăng cường sử dụng rivaroxaban không?
Hoa Tử cho biết, aspirin là thuốc chống tập kết tiểu cầu, rivaroxaban là thuốc chống đông máu. Việc sử dụng cả hai loại thuốc này có thể tạo ra tác dụng “bảo hiểm kép” đối với huyết khối, nhưng cũng đồng nghĩa với việc tăng nguy cơ chảy máu. Nếu bệnh động mạch vành khá ổn định, thì việc chỉ dùng rivaroxaban có thể mang lại lợi ích lớn hơn.
Aspirin, clopidogrel, ticagrelor và các loại thuốc chống tập kết tiểu cầu khác thường được sử dụng, chủ yếu là để ức chế chức năng tập kết của tiểu cầu, ngăn chặn việc hình thành huyết khối khi mảng xơ vữa động mạch bị vỡ, phòng ngừa đột quỵ não và nhồi máu cơ tim.
Những người đã từng bị nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ não có nguy cơ tái phát rất cao; những người đã được chẩn đoán bệnh động mạch vành hoặc có độ hẹp động mạch trên 50%; hoặc những người mà bác sĩ đánh giá có nguy cơ huyết khối cao cần phải điều trị bằng thuốc chống tập kết tiểu cầu lâu dài.
Tuy nhiên, đối với những người khỏe mạnh không có các nguy cơ trên, việc điều trị bằng thuốc chống tập kết tiểu cầu không được khuyến nghị vì lợi ích và rủi ro gần như cân bằng.
Rivaroxaban, dabigatran, apixaban và warfarin là những loại thuốc chống đông máu thường dùng, chủ yếu nhằm ức chế các yếu tố đông máu trong máu, phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu và huyết khối trong tâm nhĩ khi có rung nhĩ, ngăn ngừa tắc động mạch phổi và đột quỵ não.
Hạn chế vận động lâu dài ở chân (như do chấn thương, phẫu thuật, ung thư gây ra) có nguy cơ huyết khối tĩnh mạch lớn; rung nhĩ và bệnh van tim (như thay van hoặc sửa van) cũng làm tăng nguy cơ huyết khối nguồn gốc tim, cần điều trị bằng thuốc chống đông lâu dài.
Trong nghiên cứu AFIRE, 2236 bệnh nhân có bệnh động mạch vành ổn định kèm theo rung nhĩ đã được phân ngẫu nhiên vào nhóm điều trị rivaroxaban đơn nhóm hoặc nhóm điều trị rivaroxaban kết hợp với một thuốc chống tập kết tiểu cầu. Kết quả cho thấy, việc thêm thuốc chống tập kết tiểu cầu so với điều trị chống đông đơn độc sẽ làm tăng đáng kể nguy cơ chảy máu và tử vong, trong khi đó các biến cố tim mạch chủ yếu không có sự khác biệt rõ ràng.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy, việc sử dụng thuốc chống tập kết tiểu cầu và thuốc chống đông, việc kết hợp cả hai sẽ làm tăng nguy cơ chảy máu rất lớn. Do đó, ở những bệnh nhân bệnh động mạch vành ổn định kèm theo rung nhĩ, việc áp dụng phác đồ điều trị chống đông đơn độc có nguy cơ chảy máu thấp hơn và độ an toàn cao hơn.
Chỉ những người có nguy cơ thiếu máu cục bộ cực kỳ cao cần thận trọng sử dụng phác đồ kết hợp giữa thuốc chống đông và thuốc chống tập kết tiểu cầu, dưới điều kiện đã đánh giá nguy cơ chảy máu. Trong việc lựa chọn thuốc, những loại thuốc chống đông mới (rivaroxaban, apixaban, dabigatran) an toàn hơn warfarin; trong số các thuốc chống tập kết tiểu cầu, clopidogrel an toàn hơn aspirin.
Nếu gần đây đã thực hiện điều trị đặt stent, có thể xem xét sử dụng phác đồ ba thuốc trong thời gian ngắn (thuốc chống đông + clopidogrel + aspirin) sau phẫu thuật, nhưng nguy cơ chảy máu sẽ lớn, cần thận trọng đánh giá liệu có phù hợp hay không; một phương pháp an toàn hơn là sử dụng phác đồ hai thuốc trong thời gian ngắn (thuốc chống đông + clopidogrel), và trong điều trị duy trì lâu dài chỉ sử dụng thuốc chống đông đơn độc.
Tóm lại, nếu có bệnh động mạch vành ổn định kèm theo rung nhĩ, việc sử dụng điều trị chống đông đơn độc an toàn hơn so với phác đồ kết hợp chống đông với thuốc chống tập kết tiểu cầu. Tuy nhiên, do sự khác biệt giữa các cá nhân lớn, trong nhiều trường hợp không có lợi ích hoặc bất lợi tuyệt đối, vì vậy cần bác sĩ đánh giá để chọn phác đồ sao cho lợi nhiều hơn hại.
Thuốc cần được sử dụng dưới sự hướng dẫn của bác sĩ. Nếu có thắc mắc về việc sử dụng thuốc, vui lòng hỏi ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ. Tôi là dược sĩ Hoa Tử, chào mừng bạn theo dõi tôi để chia sẻ thêm nhiều kiến thức sức khỏe.