Cân bằng Tâm-Thân: Hướng dẫn cho Sức khỏe của Bạn

Cung cấp hướng dẫn sức khỏe toàn diện kết hợp giữa trí tuệ truyền thống với khoa học hiện đại để giúp bạn đạt được sự hài hòa giữa cơ thể và tâm trí.

5 câu hỏi và 5 câu trả lời giúp bạn nắm vững những điểm chính trong chẩn đoán và điều trị bệnh thận màng! Khuyên bạn nên lưu lại!


Bệnh thận màng là nguyên nhân thường gặp gây hội chứng thận ở người lớn, nhưng thực tế, bệnh thận màng có nhiều nguyên nhân khác nhau, do đó dễ xảy ra những hiểu lầm trong điều trị.

Để giúp lâm sàng hiểu rõ hơn, “Y lộ thận khang” đã tổng hợp 5 câu hỏi và 5 câu trả lời liên quan đến bệnh thận màng.

Hình minh họa về bệnh thận màng


Câu hỏi 1: Bệnh thận màng là gì?

Bệnh thận màng là một thuật ngữ chẩn đoán bệnh lý hình thái học, chỉ sự lắng đọng của phức hợp miễn dịch dưới tế bào biểu mô của lớp tạng cầu thận, dẫn đến một loạt các biến đổi của màng đáy cầu thận.

Biểu hiện điển hình là sự dày lên không đều và lan tỏa của màng đáy cầu thận và sự hình thành “gai”.

Khoảng 20% đến 25% bệnh thận màng thứ phát do các bệnh khác như viêm gan virus B hoặc các nhiễm trùng khác, các bệnh tự miễn (lupus ban đỏ hệ thống, hội chứng Sjögren, viêm khớp dạng thấp…), thuốc (chế phẩm vàng, penicillamine…), u bướu khác,

Việc điều trị tích cực cho bệnh nguyên phát hoặc loại bỏ yếu tố gây bệnh có thể làm giảm nhẹ hoặc thậm chí làm mất triệu chứng.

Tuy nhiên, phần lớn nguyên nhân của bệnh thận màng vẫn chưa rõ ràng.

Do đó, dựa trên nguyên nhân học của bệnh thận màng, lâm sàng chia thành

Bệnh thận màng tự phát



bệnh thận màng thứ phát. Trong đó, bệnh thận màng tự phát chiếm 80% tổng số bệnh thận màng, và hơn 30% bệnh nhân sẽ có protein niệu lâu dài và phát triển thành bệnh thận giai đoạn cuối.


Câu hỏi 2: Bệnh thận màng có các triệu chứng lâm sàng nào?

(1) Thường gặp ở độ tuổi trên 40,

khởi phát thường khá âm thầm.

(2)

Hội chứng thận

: Protein niệu lớn, hạ albumin huyết, tăng lipid huyết và phù nề nặng.

(3)

Tiểu máu vi thể.

(4) Một số bệnh nhân

có tăng huyết áp hoặc tổn thương chức năng thận.

(5)

Triệu chứng lâm sàng

: Phù ở hai chân hoặc mặt, trong trường hợp nặng có thể xuất hiện tràn dịch ổ bụng, tràn dịch màng phổi, thường là dịch thấm; một số bệnh nhân có thể không có triệu chứng lâm sàng và chỉ phát hiện protein niệu khi kiểm tra sức khỏe định kỳ.

Cần lưu ý rằng, bệnh nhân mắc bệnh thận màng tự phát nếu không được điều trị kịp thời, 1/3 trong số họ sẽ phát triển thành bệnh thận giai đoạn cuối khoảng 10 năm sau khi khởi phát, cuối cùng chỉ có thể phụ thuộc vào lọc máu hoặc ghép thận để duy trì sự sống.


Câu hỏi 3: Làm thế nào để phân biệt bệnh thận màng thứ phát và bệnh thận màng tự phát?


Bệnh thận màng thứ phát là chỉ có nguyên nhân rõ ràng,

có thể gặp trong các bệnh lý viêm như lupus và viêm khớp dạng thấp, các bệnh truyền nhiễm như virus viêm gan B, virus EB và các yếu tố môi trường, bào chế bằng thuốc vàng, penicillamine, kim loại nặng,…,

Thông thường điều trị các bệnh nguyên phát có thể làm giảm triệu chứng.


Trong khi đó


Nguyên nhân gây bệnh thận màng tự phát hiện vẫn chưa rõ ràng, trong điều trị cần kết hợp với kiểm tra sinh thiết thận và mức độ protein niệu để điều trị toàn diện.


Câu hỏi 4: Làm thế nào để chẩn đoán bệnh thận màng?

Biến đổi bệnh lý thận điển hình của bệnh thận màng là sự dày lên lan tỏa của màng đáy cầu thận, có sự hình thành “gai”, kiểm tra miễn dịch huỳnh quang cho thấy: kháng thể miễn dịch và bổ thể lắng đọng dọc theo thành mao mạch. Chẩn đoán cần dựa vào triệu chứng lâm sàng và thực hiện sinh thiết thận để xem biến đổi bệnh lý. Các biến đổi bệnh lý trong sinh thiết thận như sau:


(1) Kính hiển vi quang học

Thay đổi màng đáy mao mạch cầu thận là biến đổi đặc trưng của bệnh thận màng. Trong cầu thận không có tổn thương tăng sinh và tổn thương viêm xuất huyết; giai đoạn muộn có thể xuất hiện độ rộng khoang tế bào trung gian, tăng sinh tế bào theo từng đoạn; cũng có thể biểu hiện là sự sụp đổ từng đoạn của mao mạch cầu thận, hoặc mất hoàn toàn cầu thận.


(2) Bệnh lý miễn dịch

IgG phân bố thành từng hạt dọc theo mao mạch cầu thận, đa số bệnh nhân có thể thấy sự lắng đọng C3, một số ít trường hợp có thể thấy sự lắng đọng của IgM và IgA.


(3) Kính hiển vi điện tử

Trên bề mặt bên biểu mô của màng đáy mao mạch cầu thận có thể thấy sự lắng đọng vật chất điện dày. Giai đoạn I: Vật chất điện dày ở phía biểu mô tương đối nhỏ, phân bố rải rác, cấu trúc màng đáy còn nguyên vẹn. Giai đoạn II: Vật chất dày bên biểu mô tăng lên, vật chất giống như màng đáy tăng sinh, nhô lên phía biểu mô hình thành gai. Giai đoạn III: Vật chất giống như màng đáy tiếp tục bao quanh vật chất điện dày vào trong màng, màng đáy dày lên rõ rệt, xuất hiện lớp không đều. Giai đoạn IV: Vật chất điện dày bên trong màng đáy bắt đầu bị hấp thu, xuất hiện vùng trong suốt, màng đáy xuất hiện biến đổi giống như ăn mòn. Nếu phát hiện thấy vật chất điện dày trong khoang trung gian và dưới nội mô, cần chú ý đến khả năng nguyên nhân thứ phát.


Câu hỏi 5: Làm thế nào để điều trị bệnh thận màng?

Đối với

bệnh thận màng thứ phát, điều trị thường dựa vào bệnh nguyên phát gây ra và điều trị triệu chứng, kết hợp theo tình hình lâm sàng thực tế của bệnh nhân.

Bệnh thận màng tự phát chủ yếu sử dụng các loại thuốc ức chế men chuyển angiotensin, thuốc đối kháng thụ thể angiotensin II, giúp giảm lượng protein niệu cho bệnh nhân, đồng thời cung cấp điều trị chống đông, điều trị điều chỉnh lipid, điều trị hỗ trợ triệu chứng và điều trị kết hợp hormone cùng với các loại thuốc miễn dịch.

Đối với bệnh nhân có tình trạng khó điều trị do thiếu hấp thu hormone, cần cung cấp thuốc lợi tiểu, bổ sung điều trị albumin, giảm phù nề đường tiêu hóa; đối với bệnh nhân suy thận cấp tính, cần tích cực thực hiện điều trị thận, sửa chữa các yếu tố có thể hồi phục; đối với bệnh nhân dùng hormone và thuốc ức chế miễn dịch không đúng cách, cần điều chỉnh liều lượng tùy theo triệu chứng của bệnh nhân, sử dụng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ và áp dụng kế hoạch điều trị cá nhân hóa.

Các loại thuốc điều trị: (1) Ức chế calcineurin, chẳng hạn như cyclosporine, tacrolimus, mycophenolate mofetil có tác dụng nhanh; (2) Điều trị ức chế miễn dịch đa điểm, trong lâm sàng thường dùng kết hợp glucocorticoid + mycophenolate mofetil + ức chế calcineurin, có thể phát huy hiệu quả bằng cách kết hợp các loại thuốc khác nhau, đạt được hiệu quả hợp sức; (3) Điều trị bằng chế phẩm sinh học như kháng thể đơn dòng rituximab.

Tác giả/biên tập/định dạng: Lương Hứa Hồng