Cân bằng Tâm-Thân: Hướng dẫn cho Sức khỏe của Bạn

Cung cấp hướng dẫn sức khỏe toàn diện kết hợp giữa trí tuệ truyền thống với khoa học hiện đại để giúp bạn đạt được sự hài hòa giữa cơ thể và tâm trí.

Cơ chế và biện pháp phòng ngừa đột quỵ

Trong hệ thống sinh mạng chính xác của con người, mạch máu não giống như các tuyến giao thông chằng chịt, mang nhiệm vụ cung cấp oxy và dinh dưỡng cho não bộ. Đột quỵ não, giống như sự “tắc nghẽn giao thông” hay “sụp đổ đường” bất ngờ, ngay lập tức phá vỡ nhịp điệu sống có trật tự. Là một trong những “kẻ sát nhân số một” đe dọa sức khỏe con người, nó không chỉ nghiêm trọng đe dọa an toàn tính mạng mà còn có thể mang lại những rối loạn chức năng không thể đảo ngược cho bệnh nhân. Hãy cùng tìm hiểu sâu hơn về đột quỵ não, khám phá lớp mặt nạ bí ẩn và nguy hiểm của nó.

Hệ thống mạch máu não và biểu đồ


Hệ thống mạch máu não: Cấu trúc của con đường sống

Hệ thống mạch máu não được hình thành từ hệ thống động mạch cảnh và hệ thống động mạch xương sống, giống như các con đường chính và đường nhánh trong thành phố, cung cấp đủ nguồn máu cho các khu vực khác nhau của não bộ. Thành mạch của những mạch máu này được cấu tạo từ lớp nội mô, lớp trung mô và lớp ngoại mô, lớp nội mô láng mịn, có thể làm giảm sức cản của dòng chảy máu; lớp trung mô có tính đàn hồi, có khả năng điều chỉnh sự co giãn của mạch máu; lớp ngoại mô có vai trò bảo vệ và hỗ trợ. Trong “thành phố” não bộ này, các mao mạch giống như những con hẻm nhỏ, chính xác cung cấp oxy và chất dinh dưỡng đến từng tế bào thần kinh, duy trì hoạt động bình thường của não.

Não chỉ chiếm khoảng 2% trọng lượng cơ thể nhưng tiêu thụ tới 20% oxy và glucose của toàn bộ cơ thể. Để đáp ứng nhu cầu lớn này, hệ thống mạch máu não đã phát triển một “cơ chế bảo vệ” độc đáo – hàng rào máu não. Nó được cấu thành từ tế bào nội mô mao mạch não, màng đáy và các chân của tế bào đệm sao, giống như một lưới lọc tinh vi, chỉ cho phép oxy, carbon dioxide, glucose và các chất cần thiết khác đi qua, đồng thời ngăn chặn vi khuẩn, virus và các chất độc hại lớn xâm nhập vào mô não, tạo ra một môi trường bên trong ổn định cho tế bào thần kinh. Tuy nhiên, hàng rào này sẽ bị phá hủy khi xảy ra đột quỵ, làm tăng tổn thương mô não. Ví dụ, trong đột quỵ thiếu máu, do lưu lượng máu bị đình trệ, tế bào nội mô bị tổn thương vì thiếu oxy, các kết nối chặt chẽ bị phá vỡ, các chất độc hại trước đó bị ngăn chặn bên ngoài có thể xâm nhập vào bên trong, làm gia tăng tổn thương cho tế bào thần kinh; trong đột quỵ xuất huyết, sự chèn ép của huyết khối và kích thích từ các thành phần máu cũng làm tăng tính thấm của hàng rào máu não, dẫn đến phù não và hàng loạt các biến đổi bệnh lý.

Biểu đồ đột quỵ


Đột quỵ: Cuộc khủng hoảng bất ngờ

Đột quỵ não được chia thành đột quỵ thiếu máu và đột quỵ xuất huyết. Đột quỵ thiếu máu giống như con đường bị “chướng ngại vật” chặn lại, thường là do mảng xơ vữa động mạch bị vỡ, hình thành cục máu đông, ngăn chặn dòng chảy và dẫn đến thiếu máu thiếu oxy tại khu vực não. Khoảng 80% trường hợp là đột quỵ thiếu máu, các loại phổ biến bao gồm nhồi máu não và cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua. Đột quỵ xuất huyết giống như con đường đột ngột “sụp đổ”, chủ yếu do cao huyết áp, dị dạng mạch máu não… dẫn đến vỡ mạch máu não, máu tràn vào mô não, hình thành huyết khối, đè nén các mô não bình thường xung quanh, gây tổn thương, chủ yếu bao gồm xuất huyết não và xuất huyết dưới nhện.

Khi xảy ra đột quỵ, mỗi giây đều vô cùng quan trọng. Trong tình trạng thiếu máu thiếu oxy, tế bào thần kinh sẽ nhanh chóng kích hoạt “chương trình chết”, mỗi khi chậm trễ một phút, sẽ có 1,9 triệu tế bào thần kinh tử vong, và chức năng thần kinh bị tổn thương rất khó hồi phục. Bệnh nhân có thể đột ngột bị yếu hoặc tê một bên tay chân, khó nói, méo miệng, nhìn mờ, chóng mặt và đau đầu, nghiêm trọng hơn có thể rơi vào hôn mê, đe dọa tính mạng. Chẳng hạn, nếu vùng não điều khiển chuyển động cơ mặt bị tổn thương, sẽ dẫn đến tình trạng méo miệng; nếu ảnh hưởng đến trung tâm ngôn ngữ, sẽ gây ra rối loạn ngôn ngữ, bệnh nhân có thể không diễn đạt được ý nghĩ của mình chính xác, hoặc không nghe hiểu được người khác nói. Ngoài ra, nếu tổn thương xảy ra ở tiểu não, sẽ ảnh hưởng đến khả năng cân bằng và phối hợp của cơ thể, bệnh nhân có thể đi lại không vững, hành động vụng về; nếu tổn thương đến não giữa – “trung tâm sự sống”, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hô hấp, nhịp tim và các hoạt động sống cơ bản, dẫn đến ngừng hô hấp và huyết áp bất thường.


Cơ thể tự cứu và phục hồi

Đối mặt với cuộc tấn công của đột quỵ, cơ thể không hoàn toàn bị động. Trong giai đoạn đầu của thiếu máu, các mô não tại khu vực bị tổn thương sẽ kích hoạt một số cơ chế tự bảo vệ, như việc mở rộng các mạch máu nhỏ xung quanh, cố gắng thiết lập một tuần hoàn bổ sung mới nhằm làm giảm tình trạng thiếu máu. Đồng thời, hệ thống đông máu và tiêu sợi huyết trong cơ thể cũng sẽ nhanh chóng kích hoạt, cố gắng hòa tan cục máu đông hoặc ngăn chặn xuất huyết. Sau khi bệnh tình ổn định, não bộ còn có một mức độ khả năng tái cấu trúc nhất định, thông qua việc tái lập cấu trúc thần kinh, các mô não không bị tổn thương có thể dần dần bù đắp một phần chức năng của vùng bị tổn thương. Ví dụ, sau quá trình phục hồi hệ thống, các chi bị mất khả năng vận động do đột quỵ có thể dần dần phục hồi một phần chức năng vận động. Tuy nhiên, những khả năng tự cứu này có giới hạn, nếu không thể kịp thời nhận được liệu pháp hiệu quả, thì thường rất khó để cứu vãn tình hình.

Hiện tại, việc điều trị cho đột quỵ đang diễn ra nhanh chóng. Đối với đột quỵ thiếu máu, trong khoảng thời gian “cửa sổ vàng” từ 4,5 đến 6 giờ đầu tiên, có thể áp dụng phương pháp tiêu huyết khối tĩnh mạch hoặc lấy cục máu đông bằng cơ học, nhanh chóng thông tắc mạch máu, phục hồi dòng chảy. Chẳng hạn, trong phương pháp tiêu huyết khối tĩnh mạch, các loại thuốc thường được sử dụng như Alteplase, có thể kích hoạt plasminogen để chuyển đổi thành plasmin, từ đó hòa tan cục máu đông; lấy cục máu đông bằng cơ học là thông qua phẫu thuật can thiệp, sử dụng thiết bị lấy cục đặc biệt để trực tiếp lấy cục máu đông ra. Đối với đột quỵ xuất huyết, cần phải lựa chọn điều trị bảo tồn hoặc phẫu thuật tùy theo vị trí và lượng máu xuất huyết, nhằm giảm áp lực huyết khối, giảm áp lực nội sọ. Điều trị bảo tồn bao gồm kiểm soát huyết áp, giảm áp lực nội sọ, ngăn ngừa các biến chứng; phương pháp phẫu thuật bao gồm phẫu thuật lấy huyết khối não, dẫn lưu não thất… Nhưng ngay cả khi nhận được điều trị, nhiều bệnh nhân vẫn sẽ để lại các di chứng khác nhau cần phải phục hồi lâu dài. Phục hồi chức năng bao gồm vật lý trị liệu, trị liệu nghề nghiệp, trị liệu ngôn ngữ và nhiều khía cạnh khác, vật lý trị liệu thông qua các bài tập vận động để cải thiện chức năng chi, trị liệu nghề nghiệp giúp bệnh nhân khôi phục khả năng sinh hoạt hàng ngày, trị liệu ngôn ngữ thì tập trung vào việc điều chỉnh và phục hồi rối loạn ngôn ngữ.

Hình ảnh phục hồi chức năng


Các yếu tố nguy cơ và chiến lược phòng ngừa

Cao huyết áp, mỡ máu cao, tiểu đường, hút thuốc, uống rượu, béo phì, thiếu vận động đều là những yếu tố nguy cơ quan trọng gây ra đột quỵ. Cao huyết áp làm cho thành mạch chịu áp lực quá cao trong thời gian dài, dẫn đến tổn thương lớp nội mô mạch máu, thúc đẩy quá trình xơ vữa động mạch; mỡ máu cao làm cho độ nhớt của máu tăng, lipid tích tụ tại thành mạch hình thành mảng bám; hút thuốc và uống rượu sẽ làm tổn thương tế bào nội mô mạch máu, giảm tính linh hoạt của mạch. Ngoài ra, tuổi cao, lịch sử gia đình cũng làm gia tăng nguy cơ mắc đột quỵ, khi tuổi tăng lên, mạch máu dần dần lão hóa khiến nguy cơ mắc bệnh tăng lên đáng kể; với những người có lịch sử bệnh trong gia đình, khả năng mắc bệnh cũng cao hơn do ảnh hưởng của gen di truyền. Đáng lưu ý, tăng homocystein huyết cũng là một yếu tố nguy cơ được chú trọng trong những năm gần đây, nó có thể làm tổn thương tế bào nội mô mạch máu, thúc đẩy hình thành cục máu đông, trong khi việc bổ sung axit folic, vitamin B6 và B12 có thể giúp giảm mức homocystein.

Để phòng ngừa đột quỵ, cần bắt đầu từ những chi tiết trong cuộc sống. Duy trì chế độ ăn uống cân bằng, giảm lượng muối, dầu, đường, tăng cường tiêu thụ rau và trái cây; kiên trì tập thể dục vừa phải, ít nhất 150 phút hoạt động thể dục nhịp điệu mỗi tuần; bỏ thuốc lá và hạn chế uống rượu; kiểm tra sức khỏe định kỳ, theo dõi các chỉ số huyết áp, lipid máu, đường huyết…; tích cực điều trị các bệnh nền. Đối với nhóm có nguy cơ cao, cũng cần sử dụng thuốc hợp lý dưới sự hướng dẫn của bác sĩ để giảm nguy cơ bệnh tật. Thêm vào đó, việc học thuộc “mẹo 120 về đột quỵ” cũng rất quan trọng: “1” đại diện cho việc nhìn thấy một gương mặt không đối xứng, “2” đại diện cho việc kiểm tra xem hai cánh tay có yếu một bên hay không, “0” đại diện cho việc nghe lời nói có rõ ràng hay không. Nếu phát hiện những triệu chứng này, nên ngay lập tức gọi số 120, khẩn trương đi cấp cứu. Hơn nữa, toàn xã hội cũng cần tăng cường phổ biến kiến thức phòng chống đột quỵ, nâng cao nhận thức của công chúng về bệnh tật, khuyến khích những người có nguy cơ cao tự chủ động kiểm tra, thực hiện phát hiện sớm và can thiệp sớm.

Đột quỵ như một cuộc chiến tranh không tiếng, có thể bất ngờ tấn công tính mạng. Hiểu biết về cơ chế bệnh sinh, các biểu hiện triệu chứng và các biện pháp phòng ngừa là chìa khóa để bảo vệ sức khỏe cuộc sống. Hãy quan tâm đến việc phòng ngừa đột quỵ, bảo vệ “mạng lưới giao thông” của não, xa lánh mối đe dọa sức khỏe này, tận hưởng cuộc sống tràn đầy sức sống.


Tuyên bố: Bài viết này là bài viết giáo dục liên quan đến y học, không đề cập đến các phương pháp điều trị cụ thể hoặc hành vi y tế, không thể thay thế thăm khám tại bệnh viện.



Giới thiệu tác giả:


Triệu Kiều Kiều, nữ, y tá trưởng, chuyên gia phổ cập khoa học Trung Quốc, thành viên của Hiệp hội Điều dưỡng Đột quỵ Trung Quốc, thành viên Hiệp hội Y tế Nông thôn Trung Quốc, thành viên Hiệp hội Y học Cổ truyền Trung Quốc, ủy viên Ủy ban Điều dưỡng Hiệp hội Đột quỵ tỉnh Sơn Đông, thành viên Hiệp hội Điều dưỡng Sơn Đông, thành viên Hiệp hội Tình nguyện viên phổ cập khoa học Sơn Đông. Tốt nghiệp chuyên ngành điều dưỡng tại Đại học Y Thái Sơn; từ năm 2007, làm việc tại Bệnh viện trực thuộc Đại học Y Thái Sơn (sau đó được đổi tên thành Bệnh viện Đại học Y khoa số 2 Sơn Đông), đã làm việc tại Khoa Cấp cứu, Khoa Ngoại thần kinh, Khoa Y tế chăm sóc đặc biệt, Khoa Y tế cấp cứu số 2. Đã tham gia lâu dài trong nghiên cứu điều dưỡng cấp cứu và chăm sóc sức khỏe đặc biệt.