Cân bằng Tâm-Thân: Hướng dẫn cho Sức khỏe của Bạn

Cung cấp hướng dẫn sức khỏe toàn diện kết hợp giữa trí tuệ truyền thống với khoa học hiện đại để giúp bạn đạt được sự hài hòa giữa cơ thể và tâm trí.

Những cơn đau này ở phụ nữ, thực sự không phải là “thái quá”!

Đau là một trong năm dấu hiệu sống được Tổ chức Y tế Thế giới xếp hạng, chỉ sau nhịp tim, hô hấp, mạch và nhiệt độ cơ thể, trở thành vấn đề sức khỏe lớn thứ ba sau các bệnh tim mạch não và ung thư.

Thống kê cho thấy,

tỷ lệ mắc bệnh đau mãn tính ở phụ nữ cao hơn rõ rệt so với nam giới

, ví dụ: tỷ lệ mắc chứng đau nửa đầu ở phụ nữ gấp đôi so với nam giới; lạc nội mạc tử cung có thể dẫn đến 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản bị đau vùng chậu, đau bụng kinh ở tuổi dậy thì, đau trong quá trình sinh nở và đau lưng chân mãn tính sau sinh.

Nguồn ảnh: Hình Ảnh

Những vấn đề đau mãn tính nghiêm trọng ảnh hưởng đến cuộc sống, công việc và việc học của phụ nữ. Với sự phát triển kinh tế xã hội, nâng cao trình độ giáo dục của phụ nữ và sự tăng cường nhận thức bản thân, vấn đề đau mãn tính ở phụ nữ lâu nay bị bỏ qua đã nhận được nhiều sự chú ý hơn, trở thành một vấn đề sức khỏe quan trọng cần được giải quyết.


01, Đau mãn tính là gì?

Đau mãn tính là loại đau kéo dài trên 3 tháng hoặc tái phát nhiều lần, thường kèm theo rối loạn cảm xúc, vấn đề giấc ngủ và suy giảm chức năng xã hội. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh đau mãn tính ở phụ nữ cao hơn rõ rệt so với nam giới. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Hiệp hội Nghiên cứu Đau Quốc tế (IASP) định nghĩa nó là “cảm giác khó chịu và trải nghiệm cảm xúc liên quan đến tổn thương thực tế hoặc tiềm năng” [1].


02, Tại sao phụ nữ dễ mắc đau mãn tính hơn?

Sự xuất hiện của đau mãn tính ở phụ nữ liên quan chặt chẽ đến sự khác biệt hormone, đặc điểm sinh học và các yếu tố tâm lý xã hội, những yếu tố này tác động chung khiến độ nhạy đau của phụ nữ cao hơn nam giới và dễ bị ảnh hưởng bởi đau mãn tính hơn.

1, Sự khác biệt hormone

Sự thay đổi định kỳ của mức estrogen trong cơ thể phụ nữ có thể làm tăng độ nhạy cảm với đau, chẳng hạn như đau nửa đầu trong kỳ kinh và đau vùng chậu. Khi tuổi tác tăng, khi bước vào thời kỳ mãn kinh, do mức estrogen giảm và loãng xương, đau mãn tính (như đau lưng, đau khớp, đau cơ toàn thân) trở thành một triệu chứng thường gặp [2].

Nguồn ảnh: Hình Ảnh

2, Sự khác biệt sinh học

Mạng lưới dây thần kinh ở phụ nữ phân bố dày đặc hơn so với nam giới, chẳng hạn như da mặt của phụ nữ có khoảng 34 sợi dây thần kinh trên mỗi cm vuông, còn nam giới chỉ khoảng 17 sợi, tức là chỉ bằng một nửa của phụ nữ. Sự khác biệt này làm cho phụ nữ nhạy cảm hơn với kích thích đau và khu vực đau lan rộng hơn; ngoài ra, gen OPRM1 có thể tăng hiệu quả giảm đau ở nam giới, trong khi có thể làm tăng cảm giác đau ở phụ nữ [3, 4, 5].

3, Các yếu tố tâm lý xã hội

Trong quá trình phát triển, nam giới thường được giáo dục phải mạnh mẽ, trong khi phụ nữ được khuyến khích thể hiện cảm xúc và sự yếu đuối, điều này có thể dẫn đến việc họ chú ý và khuếch đại cảm xúc liên quan khi đối mặt với cơn đau.

Ngoài ra, phụ nữ thường đảm nhận nhiều vai trò và trách nhiệm hơn trong xã hội, phải đối mặt với nhiều nguồn áp lực hơn, chẳng hạn như áp lực xã hội, áp lực gia đình và sự kiềm chế cảm xúc.

Nguồn ảnh: Hình Ảnh

Những yếu tố này tương tác với mức độ estrogen, sự khác biệt về cấu trúc và chức năng não bộ cũng như mức độ chất truyền dẫn thần kinh, khiến phụ nữ dễ phát sinh cảm xúc tiêu cực, và cảm xúc tiêu cực lại làm tăng cảm nhận cơn đau, thúc đẩy sự phát triển thêm của đau mãn tính [6].


03, Tại sao đau mãn tính khó chẩn đoán vậy?

1, Quan niệm xã hội lạc hậu

Trước đây, công luận thường có những quan niệm sai lầm như “đau nhỏ thì chịu đựng” hay “ai cũng đều bị đau, chỉ cần chịu đựng”, dẫn đến việc bệnh nhân khó có được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Phụ nữ đặc biệt bị yêu cầu “chịu đựng cơn đau”, ví dụ như đau đớn trong quá trình sinh nở và đau ở mãn kinh thường bị coi là “hiện tượng bình thường”.

Hiện nay, việc giảm đau trong sinh nở đã được đưa vào bảo hiểm y tế toàn diện và được phổ biến trên toàn quốc, đã cải thiện rõ rệt vấn đề đau trong quá trình sinh nở so với cách đây 10 năm, đã nhận được sự đánh giá cao từ xã hội. Tuy nhiên, vẫn cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến và hỗ trợ kinh tế tại các vùng và đối tượng còn kinh tế yếu kém.

Nguồn ảnh: Hình Ảnh

Các nhà xã hội học nên quan tâm đến việc tự nhận thức và nhận dạng cơn đau của nhóm phụ nữ, phổ biến kinh nghiệm tiên tiến trong điều trị và phòng ngừa đau mãn tính; các nhà khoa học y tế thì cần khám phá các phương pháp giảm đau tiên tiến, hiệu quả, tiện lợi, kinh tế, không gây nghiện và dễ dàng phổ biến.

2, Thành kiến giới

Nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy, 75% bệnh nhân nữ báo cáo rằng bác sĩ đánh giá thấp mức độ đau của họ, thường quy cho rằng đó là “cảm xúc thái quá” hoặc “vấn đề tâm lý”. Hơn nữa, khi phụ nữ đi khám vì cơn đau, triệu chứng của họ thường dễ bị chẩn đoán nhầm là lo âu hoặc trầm cảm [7, 8].

3, Hạn chế của các lĩnh vực

Cơ chế đau rất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực như thần kinh, nội tiết, tâm lý và điều trị can thiệp, mô hình điều trị truyền thống khó có thể bao quát toàn diện. Ngoài ra, khoa đau trong nước khởi đầu tương đối muộn, số lượng bác sĩ chuyên khoa không đủ, nhận thức của bác sĩ tuyến cơ sở về cơn đau của phụ nữ cũng rất có giới hạn [9].


04, Có đau mãn tính thì phải làm sao?

Khi đối mặt với đau mãn tính, có thể thực hiện các bài tập thể chất và tinh thần (như Pilates, yoga) để giảm bớt cảm xúc, hoặc chuyển sự chú ý thông qua thiền định, điều chỉnh nhịp thở [10]; nhưng nếu gặp những tình huống sau, nên đi khám ngay:


1, Đau liên tục không rõ nguyên nhân

: như đau đầu, đau ngực, đau bụng, đau lưng, đau chân kéo dài trên 3 tháng.


2, Đau nặng (VAS≥7)

: như đau vùng chậu (giống như đau trong quá trình sinh) hoặc đau thần kinh sinh ba, cần can thiệp điều trị kịp thời.

Sử dụng thang điểm VAS để đánh giá mức độ đau


3, Đau kèm theo mất chức năng

: như không thể đi lại vì viêm khớp hông, hoặc viêm quanh khớp vai nghiêm trọng khiến hoạt động bị hạn chế.

Hiện tại, một số bệnh viện đã mở khoa đau, bệnh nhân có thể đăng ký khám trực tiếp. Đối với các bệnh viện chưa mở khoa đau, bệnh nhân có thể nhận được lời khuyên khám bệnh trực tuyến (một số bệnh viện đã kết nối với hệ thống hỗ trợ thông minh như DeepSeek), hoặc đến các khoa nội, ngoại, phụ sản thông thường để kiểm tra.

Phạm vi kiểm tra bao gồm các nguyên nhân tiềm ẩn như nhiễm trùng, bệnh mạch máu, bệnh lý thần kinh, ung thư hoặc bệnh tự miễn, đồng thời cần phân biệt triệu chứng hóa thân. Nếu cần thiết, cũng có thể tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên nghiệp từ bác sĩ tâm lý.

Nguồn ảnh: Hình Ảnh

Đau mãn tính không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất của phụ nữ mà còn sâu sắc ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý và chất lượng cuộc sống của họ. Tuy nhiên, với sự tiến bộ của nghiên cứu y học, sự chuyển biến của quan niệm xã hội và sự hoàn thiện của hệ thống y tế, chúng ta có lý do để tin rằng các vấn đề đau mãn tính của phụ nữ sẽ có được phản ứng chính xác và hiệu quả hơn.

Chỉ có thông qua sự tiến bộ phối hợp giữa khoa học, nhân văn và chính sách mới có thể xây dựng một hệ thống hỗ trợ bao dung và hiệu quả hơn cho bệnh nhân đau mãn tính, thực sự đạt được tầm nhìn y tế “đau không cần phải chịu đựng, cuộc sống có phẩm giá”.

Tài liệu tham khảo

[1] Treede R D, Rief W, Barke A, et al. A classification of chronic pain for ICD-11. Pain, 2015, 156(6): 1003-1007

[2] Tổ biên soạn bộ sách Sản phụ khoa. Sản phụ khoa (phiên bản thứ mười) [M]. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Y tế Nhân dân, 2021.

[3] Mogil, J. S., & Bailey, A. L. (2010). Sự khác biệt về giới và giới tính trong cảm giác đau và giảm đau. Trong Sổ tay thần kinh hành vi (Tập 8, tr. 363-382). Springer New York

[4] Smith, S. B., et al. (2006). Sự khác biệt về giới trong di truyền chức năng của thụ thể mu-opioid (OPRM1) và mối quan hệ của nó với độ nhạy cảm đau. Pain, 125(3), 260-268.

[5] Smith, J. D. (2005). Sự khác biệt về giới trong cảm nhận đau và sự giảm đau. Phẫu thuật Tạo hình và Tái tạo, 116(5), 1234-1240

[6] Fillingim, R. B., Smith, S. B., & Robinson, M. E. (2009). Sự khác biệt về giới trong cảm giác đau và giảm đau: Từ phân tử đến nam và nữ. Tạp chí Đau, 10(11), 1071-1075.

[7] Hoffmann, D. E., & Tarzian, A. J. (2001). Cô gái khóc đau: Một thiên kiến chống lại phụ nữ trong điều trị cơn đau. Tạp chí Luật, Y học & Đạo đức, 29(4), 346-353.

[8] Hoffmann, D., Fillingim, R., & Veasley, C. (2022). Người phụ nữ khóc đau: Liệu có còn sự chênh lệch dựa trên giới tính trong trải nghiệm và điều trị cơn đau? Tạp chí Luật, Y học & Đạo đức, 60(4), 720-735

[9] Nhóm biên soạn Báo cáo phát triển y học đau Trung Quốc. Báo cáo phát triển y học đau Trung Quốc [M]. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Y tế Nhân dân, 2020

[10] Zhang, H Bi, Y Lu, X Hou, X Tu, Y & Hu, L. (2021). Vai trò của cảm xúc tiêu cực trong sự khác biệt giới tính về độ nhạy cảm đau [J]. NeuroImage.

Tác giả: Liu Kaiwei, Bác sĩ nội trú, Bệnh viện Phụ sản Trưởng thành Quận Trường Ninh

Biên tập & biên soạn: Tiara

Cảm ơn: Trưởng khoa Sản Bệnh viện Phụ sản Trưởng thành Quận Trường Ninh, Tiến sĩ y khoa Đại học Phúc Đán, Peng Ting đã cung cấp hướng dẫn khoa học cho bài viết này.

Nguồn hình ảnh tiêu đề: Chân của nhân vật chính trong phim “Zhen Huan Chuan”