Cân bằng Tâm-Thân: Hướng dẫn cho Sức khỏe của Bạn

Cung cấp hướng dẫn sức khỏe toàn diện kết hợp giữa trí tuệ truyền thống với khoa học hiện đại để giúp bạn đạt được sự hài hòa giữa cơ thể và tâm trí.

Tháng an toàn sử dụng thuốc quốc gia | Gia đình “Sagar” – “Chị em tốt” của Sagarate và Sagalitin

“Sharge” nghe có vẻ là một cái tên đẹp, dễ dàng khiến người ta liên tưởng đến một người phụ nữ trẻ. Trong gia đình thuốc “Sharge”, có một cặp “chị em tốt” – Shargrel và Sharglitin.

Mặc dù đều có họ “Sharge”, thậm chí “re” và “tin” có thể chỉ là cách phát âm khác nhau, nhưng thực tế các tác dụng dược lý và chỉ định của chúng hoàn toàn khác nhau. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau phân biệt.


Chị: Shargrel

Shargrel lần đầu tiên được phát hành tại Nhật Bản vào năm 1993 và được đưa vào thị trường nước ta vào năm 2001. Thuốc này thuộc nhóm thuốc chống tiểu cầu, là một chất đối kháng chọn lọc thụ thể serotonin 5-hydroxytryptamine, có thể ức chế sự tập hợp tiểu cầu do serotonin 5-hydroxytryptamine tăng cường. Nó được chỉ định để cải thiện các triệu chứng thiếu máu do bệnh động mạch mãn tính gây ra, như loét, đau và cảm giác lạnh.

Cách dùng: Người lớn mỗi lần 100 mg, uống 3 lần mỗi ngày sau bữa ăn, liều lượng nên điều chỉnh cho phù hợp với tuổi và triệu chứng.


Những điều cần lưu ý khi sử dụng Shargrel:

1. Bệnh nhân cao tuổi nên bắt đầu dùng thuốc với liều thấp (150 mg/ngày), theo dõi tình trạng bệnh nhân thật sự cẩn thận.

2. Bệnh nhân có triệu chứng xuất huyết (bệnh máu khó đông, bệnh mao mạch yếu, loét dạ dày, xuất huyết niệu đạo, ho ra máu, xuất huyết thể kính, v.v.), phụ nữ có thai hoặc có khả năng mang thai không được sử dụng.

3. Bệnh nhân trong kỳ kinh nguyệt, có xu hướng xuất huyết và có các yếu tố xuất huyết, đang sử dụng thuốc chống đông máu hoặc các thuốc ức chế sự tập hợp tiểu cầu, người có suy thận nặng cần phải cân nhắc lợi hại thật cẩn thận trước khi sử dụng.


Em: Sharglitin

Sharglitin được phê duyệt vào năm 2009 tại Mỹ và năm 2011 ở nước ta. Thuốc này là thuốc hạ đường huyết, là một chất ức chế cạnh tranh chọn lọc dipeptidyl peptidase-4 (DPP-4), được chỉ định để điều trị bệnh tiểu đường type 2, không sử dụng cho bệnh nhân tiểu đường type 1 hoặc có tình trạng toan ceton. Nó có thể được sử dụng như một thuốc đơn, cải thiện kiểm soát đường huyết trên cơ sở chế độ ăn uống và tập thể dục. Khi chỉ sử dụng metformin mà đường huyết không được kiểm soát, có thể kết hợp với Sharglitin để cải thiện kiểm soát đường huyết.

Cách dùng: Uống, liều khuyến cáo 5 mg, uống 1 lần mỗi ngày, thời gian uống không bị ảnh hưởng bởi bữa ăn, không được cắt hoặc bẻ thuốc.


Những điều cần lưu ý khi sử dụng Sharglitin:

1. Suy thận: Người có độ lọc cầu thận (eGFR) ≤45 ml/phút/1.73 m², bao gồm cả một số bệnh nhân suy thận vừa và nặng, hoặc người mắc bệnh thận giai đoạn cuối cần phải lọc máu, cần điều chỉnh liều xuống 2.5 mg, uống 1 lần mỗi ngày. Cần hết sức cẩn thận khi dùng cho bệnh nhân suy thận nặng.

2. Phản ứng quá mẫn: Sau khi Sharglitin ra mắt, đã có báo cáo về phản ứng quá mẫn nghiêm trọng, bao gồm phản ứng dị ứng ngay lập tức, phù mạch và tổn thương da bóc tách. Những phản ứng này xảy ra trong vòng 3 tháng điều trị đầu tiên, một số báo cáo xảy ra ngay sau liều đầu tiên. Nếu nghi ngờ có phản ứng quá mẫn nghiêm trọng, cần ngừng sử dụng.

3. Đau khớp nặng và mất khả năng lao động: Các chất ức chế DPP-4 đã có báo cáo về việc xảy ra đau khớp nặng và mất khả năng lao động sau khi đưa vào sử dụng, thời gian từ khi bắt đầu điều trị đến khi có triệu chứng có thể từ 1 ngày đến nhiều năm, triệu chứng sẽ giảm sau khi ngừng thuốc.

Shargrel và Sharglitin là cặp “chị em tốt”, trong những tình trạng đặc biệt, chẳng hạn như cho bệnh nhân tiểu đường có loét chân do tiểu đường hoặc bệnh động mạch chi dưới, chúng có thể được sử dụng đồng thời. Tuy nhiên, mục đích sử dụng khác nhau, Shargrel nhằm hạn chế sự hình thành cục máu đông trong mạch máu, trong khi Sharglitin dùng để hạ đường huyết. Khi sử dụng hàng ngày, cần phải kiểm tra tên thuốc thật cẩn thận, tốt nhất là nên lưu trữ riêng để tránh nhầm lẫn thuốc làm ảnh hưởng đến tình trạng bệnh và gây ra hậu quả xấu.