Cân bằng Tâm-Thân: Hướng dẫn cho Sức khỏe của Bạn

Cung cấp hướng dẫn sức khỏe toàn diện kết hợp giữa trí tuệ truyền thống với khoa học hiện đại để giúp bạn đạt được sự hài hòa giữa cơ thể và tâm trí.

“Có hiểu biết về ‘y học’ | Phụ huynh hãy chú ý! Trẻ em cũng có thể mắc u, có một số triệu chứng mà chúng ta không thể ngờ tới!”

Khi những tia nắng đầu tiên của buổi sáng chiếu vào bệnh viện nhi nhi tại Bắc Kinh, bé Tiểu Tiểu (tên đã thay đổi) 6 tuổi đang ngoan ngoãn hợp tác với y tá để lấy máu xét nghiệm. Cô bé lẽ ra đang vui chơi trong công viên hay học tập ở trường, nhưng đã phải chiến đấu kiên cường với u thần kinh nguyên bào suốt một năm. Ở Trung Quốc, mỗi năm có khoảng 40.000 trẻ em như Tiểu Tiểu vừa được chẩn đoán mới. Đằng sau con số này là những gia đình đầy đau khổ và nhóm trẻ em bị u bướu cần được quan tâm.

Chủ đề của Tuần lễ phòng chống ung thư toàn quốc năm nay là “Phòng chống ung thư khoa học, sống khỏe”. Là những bác sĩ chuyên khoa về ung thư trẻ em, chúng tôi đặc biệt muốn nhắn nhủ đến mọi người: trẻ em cũng có thể mắc ung thư! Hầu như mỗi ngày, chúng tôi thấy những bậc phụ huynh hoang mang và tuyệt vọng khi con họ được chẩn đoán ung thư, cũng như tình yêu và sự ấm áp của gia đình trong cuộc chiến với ung thư. Chúng tôi mong muốn công chúng có thể hiểu biết nhiều hơn về ung thư trẻ em, hành động sớm hơn để có thêm hy vọng.


Tại sao trẻ em cũng mắc ung thư?

Nguyên nhân khiến trẻ em mắc ung thư là do nhiều yếu tố phối hợp tác động. Một số nguyên nhân chính đã được biết đến hiện nay bao gồm:

Yếu tố di truyền: Một số kiểu u trẻ em như u nguyên bào võng mạc và u phổi màng phổi có liên quan trực tiếp đến đột biến gen di truyền (như gen RB1, DICER1). Việc mang gen gây bệnh không có nghĩa là chắc chắn sẽ mắc bệnh, nhưng nguy cơ mắc ung thư cao hơn so với người bình thường.

Đột biến gen: Trong quá trình phát triển và tăng trưởng của trẻ em, tế bào có thể xảy ra đột biến gen trong quá trình phân chia và sinh sản. Nếu những đột biến này ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của tế bào, chúng có thể dẫn đến tăng sinh bất thường, gây ra khối u. Ví dụ, trong bệnh bạch cầu cấp tính ở trẻ em, thường gặp cấu trúc nhiễm sắc thể thay đổi, hoặc lặp gen MYCN trong u thần kinh nguyên bào.

Yếu tố môi trường: Việc tiếp xúc lâu dài với một số hóa chất, tiếp xúc với môi trường bức xạ, hoặc nhiễm virus như virus EB cũng có thể kích hoạt ung thư.

U trẻ em chủ yếu được chia thành hai loại: u máu và u đặc. U máu chủ yếu có nguồn gốc từ hệ thống tạo huyết limphô, ảnh hưởng đến tủy xương, máu và mô limphô, bao gồm bạch cầu và lymphoma. Trong khi đó, u đặc là một nhóm các khối u xảy ra ở độ tuổi trẻ em ngoài hệ thống tạo huyết limphô, có thể xảy ra ở nhiều cơ quan và mô trong cơ thể, chẳng hạn như u trung ương (u nguyên bào thần kinh, u sinh dục nội sọ, v.v.), u thần kinh nguyên bào, u nguyên bào thận, u võng mạc và sarcoma mô mềm.


U trẻ em có đặc điểm gì, khác với u ở người lớn?

Khác với u người lớn, u trẻ em có cơ chế phát bệnh, loại u, phương pháp điều trị và tiên lượng độc nhất.


Về cơ chế phát bệnh

: U trẻ em chủ yếu do sự phát triển bất thường của phôi và đột biến di truyền gây ra, xuất phát từ tế bào tiền thân chưa phân hóa; trong khi đó, u người lớn liên quan chặt chẽ đến việc tiếp xúc với môi trường lâu dài và thói quen sống không lành mạnh, như bức xạ, hút thuốc, uống rượu, thức khuya, v.v., xuất phát từ tế bào biểu mô trưởng thành.


Về loại u

: U trẻ em chủ yếu là u phôi, sarcoma và u hệ thống máu, chủ yếu có nguồn gốc từ mô trung mô hoặc phát triển bất thường, chẳng hạn như u thần kinh nguyên bào, u gan nguyên bào, u thận nguyên bào, u cơ vân, u Ewing, bạch cầu và lymphoma. Trong khi đó, các u ở người lớn chủ yếu là ung thư có nguồn gốc từ biểu mô, chẳng hạn như ung thư phổi, ung thư dạ dày, ung thư ruột kết và trực tràng, ung thư gan, ung thư tụy, v.v.


Về phản ứng điều trị

: U trẻ em thường nhạy cảm hơn với hóa trị và xạ trị so với u người lớn, phần lớn u trẻ em qua điều trị tích cực và quy chuẩn có tỷ lệ khỏi bệnh cao hơn đáng kể so với người lớn.


Các triệu chứng chính của u trẻ em là gì?

Các triệu chứng ban đầu của u trẻ em có thể đa dạng. Các u máu như bạch cầu, lymphoma thường có triệu chứng toàn thân rõ ràng, chẳng hạn như sốt tái phát, mệt mỏi, da xanh xao, hạch bạch huyết nổi to, khối u vùng bụng/da, chảy máu mũi, chấm xuất huyết trên da, v.v.


U đặc ở trẻ em

có thể gây ra triệu chứng tương ứng do bản thân khối u hoặc do khối u chèn ép, như khối u nổi lên dần dần trên cơ thể trẻ; trẻ mắc u trong sọ có thể gặp triệu chứng tăng áp lực nội sọ như nôn mửa phun, trẻ lớn hơn có thể cảm thấy đau đầu, đột ngột mất thị lực hoặc thính lực, trẻ nhỏ thường có thể trở nên khó chịu và khóc. U tại ngực có thể gây khó thở, ho nghẹn. U tại bụng có thể gây đau bụng, đầy hơi, khối u ở bụng. Trẻ em có u ở chi có thể có khối u tại chỗ, hạn chế vận động, v.v. U tủy sống có thể biểu hiện dưới dạng di chuyển kém và yếu ở các chi, trẻ nhỏ có thể đi lại không vững. Ngoài ra, một số trẻ có thể có biểu hiện đặc biệt liên quan đến khối u, như u võng mạc có thể xuất hiện “dấu hiệu mắt mèo”; u thần kinh nguyên bào có thể xuất hiện “mắt gấu trúc”, một số trẻ có thể có sự di chuyển ngoài ý muốn của mắt, run tay chân, cáu gắt, tiêu chảy dai dẳng không rõ nguyên nhân sau khi sinh, v.v. Một số khối u cũng có thể biểu hiện các triệu chứng nội tiết, như tăng cường uống nước và đi tiểu, dậy thì sớm, v.v.


Làm thế nào phụ huynh có thể phát hiện sớm con mình mắc ung thư?

Các triệu chứng sớm của u trẻ em thường rất kín đáo, cộng với việc trẻ em không thể biểu đạt như người lớn, vì vậy rất cần phụ huynh chú ý kỹ lưỡng và theo dõi tình trạng sức khỏe của trẻ, tìm hiểu thêm về kiến thức về u trẻ em để tạo điều kiện phát hiện sớm. Dưới đây, chúng tôi muốn giới thiệu về phương pháp “kiểm tra tại nhà khi tắm” và “sờ rốn khi ngủ” theo kinh nghiệm lâm sàng của Zhang Jinzhe, một trong những người sáng lập khoa ngoại nhi ở Trung Quốc đã qua đời, những phương pháp này đã giúp nhiều phụ huynh phát hiện sớm u ở trẻ.


Phương pháp kiểm tra khi tắm

: Khi tắm, lau từng bộ phận và đồng thời kiểm tra toàn thân. Ngón tay của phụ huynh nên chụm lại, vừa thoa xà phòng vừa sờ lên bề mặt da của trẻ. Trình tự chủ yếu có thể theo ba đường: đầu cổ tay, thân trước và thân dưới, thân sau và bẹn. Hoặc theo trật tự chữ bát: đầu cổ vai tay bụng chân lưng. Bắt đầu từ đầu đến bẹn, chi, ngón tay, ngón chân, mỗi lần tắm không nên bỏ sót. Hãy tạo thói quen này để tránh bỏ sót bất kỳ khối u nào có thể nằm bí mật, vừa giúp trẻ vệ sinh sạch sẽ vừa kiểm tra toàn diện. Hạch lympho bình thường là những khối u dưới da di động, không đau, nhỏ, không cứng, hình dạng như hạt đậu, thường dài không quá 1 cm.

Phương pháp sờ rốn khi ngủ: Khi trẻ ngủ say, ở tư thế nằm ngửa. Bóp nhẹ vào rốn bằng lòng bàn tay năm ngón tay chụm lại, từ từ ấn sâu xuống cho đến khi cảm thấy xương sống, có thể cảm nhận được nhịp đập. Nếu trẻ không béo đặc biệt và bụng không đầy hơi, đều có thể cảm nhận được nhịp đập rõ ràng, những người thiếu kinh nghiệm có thể thử nhiều lần. Điều này là do bụng của trẻ rất nhỏ, bất kỳ khối u nào có kích thước bằng một quả trứng cũng có thể làm phồng bụng, từ đó khiến bạn không thể cảm nhận được nhịp đập trước xương sống.

Ngoài các phương pháp tự kiểm tra trên, nếu trẻ xuất hiện triệu chứng sốt không rõ nguyên nhân, da xanh xao, nôn mửa, táo bón, khó tiểu, máu trong nước tiểu, tiêu chảy dai dẳng, cũng như đau kéo dài hoặc gián đoạn như đau đầu, đau bụng, đau chi, v.v., nên đưa trẻ đi khám kịp thời.


Tỷ lệ sống của u trẻ em như thế nào?

Tiên lượng của u trẻ em có liên quan chặt chẽ tới loại u, giai đoạn, phương pháp điều trị, v.v. Với sự tiến bộ của công nghệ y tế, tỷ lệ chữa trị u trẻ em đã tăng lên rõ rệt.

Chẳng hạn, bạch cầu lympho cấp tính thông qua điều trị hóa trị chuẩn mực và các phương pháp điều trị tổng hợp khác, tỷ lệ sống trong 5 năm có thể đạt trên 80%. Tỷ lệ sống sau 5 năm của các loại lymphoma trẻ em có thể đạt từ 80% đến trên 90%. Tỷ lệ chữa trị u thần kinh nguyên bào ở trẻ em có nguy cơ trung bình thấp khá cao, lên đến trên 80%, còn đối với nhóm nguy cơ cao của u thần kinh nguyên bào, với sự tham gia của các kỹ thuật như ghép tế bào gốc, điều trị miễn dịch, tỷ lệ sống trong 5 năm đã được nâng lên từ 60% đến 70% trở lên. Tỷ lệ sống sau 5 năm của u thận nguyên bào giai đoạn I-II có thể đạt từ 85% đến 95%.

Điều trị u trẻ em được thực hiện thông qua phương pháp điều trị đa chuyên khoa, do các đội ngũ phẫu thuật, nội khoa, xạ trị, hình ảnh, bệnh lý, tâm lý, điều dưỡng cùng phối hợp xây dựng chiến lược điều trị cá nhân hóa. Đội ngũ y tế sẽ đánh giá đầy đủ tác động của điều trị đối với sự phát triển của trẻ và tiến hành theo dõi và giám sát lâu dài, nhằm kịp thời phát hiện vấn đề và thực hiện biện pháp can thiệp.


Nhà có bệnh nhân ung thư, có di truyền cho con không?

Phần lớn sự phát sinh u trẻ em không liên quan đến di truyền, chỉ một số ít u trẻ em liên quan đến đột biến gen di truyền rõ rệt. Những trẻ mang đột biến gen di truyền có nguy cơ mắc u sẽ tăng đáng kể, nhưng “tăng nguy cơ” không đồng nghĩa với “chắc chắn mắc bệnh”, ngay cả khi mang gen đột biến cũng không có nghĩa là 100% sẽ phát bệnh.

U trẻ em di truyền thường khởi phát sớm, nguy cơ mắc nhiều loại u tăng cao, và tùy theo gen khác nhau mà có thể dễ mắc một số loại u đặc trưng. Một số bệnh nhân có thể đi kèm với dị tật, khó nghe, tổn thương da, chậm phát triển, v.v. Trong trường hợp gia đình có bệnh nhân ung thư, có thể thực hiện xét nghiệm gen để xác định có mang gen liên quan đến u di truyền hay không; nếu xét nghiệm phát hiện có mang gen liên quan, cần tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa về di truyền.


Khi trẻ được chẩn đoán u, nên làm gì?

Việc trẻ được chẩn đoán u là cú sốc lớn đối với gia đình, nhưng tỷ lệ chữa trị của u trẻ em thường khá cao, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời là yếu tố quan trọng. Cha mẹ nên ưu tiên lựa chọn khám tại các cơ sở chuyên khoa về u trẻ em có năng lực điều trị. Đội ngũ chuyên nghiệp sẽ tiến hành đánh giá toàn diện cho trẻ, thông qua nhận diện loại u của trẻ, các đặc điểm sinh học phân tử, phân loại giai đoạn bệnh và tình trạng tổng quát của trẻ để triển khai điều trị đa chuyên khoa.

Trong quá trình điều trị, phụ huynh cần phải kiên cường, hướng dẫn trẻ giữ tinh thần lạc quan để đối phó với u. Phụ huynh và trẻ nên đeo khẩu trang, rửa tay thường xuyên, giảm thiểu tiếp xúc nơi đông người và không khí kém, cố gắng đảm bảo trẻ tiêu hóa tốt, tránh nhiễm trùng và va chạm, tích cực hợp tác với nhân viên y tế trong điều trị, tuân theo chỉ dẫn định kỳ tái khám để theo dõi sự thay đổi bệnh tình.


Làm thế nào để phòng ngừa ung thư trẻ em?

Đầu tiên là thường xuyên


kiểm tra sức khỏe


. U trẻ em giai đoạn sớm thường khó phát hiện, thường chỉ đến khám khi có triệu chứng nghiêm trọng như khối u, đau đầu, đau xương, điều này thường dẫn đến việc u được phát hiện đã ở giai đoạn muộn. Chúng tôi khuyên nên đưa trẻ đi kiểm tra định kỳ, bên cạnh các chỉ số phát triển thông thường như chiều cao, cân nặng, vòng đầu, cũng nên tăng cường các kiểm tra như siêu âm, chụp X-quang để phát hiện sớm u.

Thứ hai là khi cần thiết thực hiện tư vấn di truyền và xét nghiệm gen. Một là nếu có nhiều thành viên trong gia đình có u, đặc biệt là ở độ tuổi phát bệnh sớm, hoặc mắc một số u đặc trưng; hai là nếu một trẻ đã được chẩn đoán mang gen u di truyền, nguy cơ mắc u của trẻ khác trong gia đình sẽ cao hơn nhóm bình thường. Cả hai trường hợp này đều được khuyến nghị thực hiện tư vấn di truyền và xét nghiệm gen trước khi sinh.

Thứ ba là các bà mẹ mang thai cần chú ý đến chế độ chăm sóc sức khỏe trong thai kỳ. Phụ nữ mang thai nên tránh tiếp xúc với các chất hóa học và phóng xạ, duy trì tâm trạng vui vẻ và lối sống lành mạnh, phòng tránh nhiễm trùng, sử dụng thuốc cẩn thận và thực hiện khám thai đúng thời gian.

Thứ tư là giảm thiểu tiếp xúc của trẻ với các chất gây ung thư. Tránh để trẻ tiếp xúc quá nhiều với bức xạ, thuốc trừ sâu, hóa chất và các yếu tố xấu khác, duy trì lối sống lành mạnh.

U trẻ em có thể phòng ngừa và điều trị, nhưng cần sự quan tâm và hành động của toàn xã hội, hãy hiểu biết nhiều hơn về ung thư, yêu thương trẻ em nhiều hơn, cùng nhau bảo vệ một tương lai tươi đẹp cho trẻ em.

Tác giả: Bác sĩ chuyên khoa ung thư bệnh viện nhi Bắc Kinh, Đại học Y khoa Bắc Kinh, Zhao Wen

Biên tập: Phó trưởng khoa đại học Y khoa Bắc Kinh, bệnh viện nhi Bắc Kinh, Bác sĩ trưởng Su Yan

Lưu ý: Hình bìa là ảnh trong kho bản quyền, việc sao chép có thể gây ra tranh chấp bản quyền